17 tháng 5, 2012

Khủng hoảng kinh tế - gói cứu trợ không thể đạt mục đích

Không thể sản xuất một mónhàng mà không biết người sử dụng có dùng được sản phẩm đó haykhông. Giải cứu doanh nghiệp phải căn cứ trên doanh nghiệp, Một góikích cầu lớn mà không tìm đúng địa chỉ thì còn tác hại nhiều hơnlà không có gói kích cầu. Câu hỏi là tại sao lại kích cầu và câutrả lời là doanh nghiệp khó khăn đi đến hồi phải giải thể. Nói thếmà đưa ra kích cầu bằng cách giảm thuế và giảm lãi suất là kíchkhông đúng chổ. Khủng hoảng xảy ra một thời gian dài, thông tin vềdoanh nghiệp đã và đang giải thể ngày càng nhiều, nhưng không thấybất kỳ một động thái nào của các cơ quan chức năng để thực hiệnthống kê chi tiết việc giải thể đó để có cách nhìn đúng đắn vềtình hình kinh tế nước ta. Phải biết ai giải thể thì mới có thểthực hiện thành công gói kích cầu.
Nếu đó là doanh nghiệp siêu nhỏ, giải thểlà điều bình thường, bởi doanh nghiệp siêu nhỏ đôi khi chỉlà một cửa hàng hoặc tương đương, họ cần uy tín hơn là thương hiệu.Có nhiều cửa hàng kinh doanh bị ép lên doanh nghiệp siêu nhỏ,nay nhân cơ hội này họ xin giải thể doanh nghiệp để không phải chịuthêm nhiều chi phí không hợp lý. Doanh nghiệp này mang tiếng giải thểnhưng đôi phần chỉ có giá trị pháp lý vì họ vẫn có thể tiếp tụchoạt động nhưng không còn là doanh nghiệp mà thôi.
Nếu đó là doanh nghiệp nhỏ đã là hơi khôngbình thường. Ở nước ta, doanh nghiệp nhỏ thường là từvốn gia đình, hùn vốn với bạn bè mà ra. Doanh nghiệp nhỏ thườngtìm một ngách khuất nào đó của thị trường để bán hàng và xây dựngthương hiệu. Các ngách này thường riêng biệt nên giá trị và giá cảsản phẩm thường cao hơn giá bình quân, hàng tồn kho thường không cóhoặc có rất ít. Vào giai đoạn khủng hoảng hiện nay, việc biến mấtcác doanh nghiệp này cũng là bình thường, bởi vì bản thân các doanhnghiệp này rất năng động, họ không đi vay, nếu có vay thì là vay thờivụ, khi khủng hoảng họ co lại để bảo toàn vốn. Doanh nghiệp nàythường khó chết, chỉ ngưng hoặc tạm ngưng hoạt động. Doanhnghiệp nhỏ giải thể không lo lắm vì khi điều kiện kinh tế tốtra những doanh nghiệp này sẽ lại mọc ra bình thường. Nhưng điều khôngbình thường là doanh nghiệp này thường có một đội ngũ nhân sự vớitrình độ gần hết là lao động phổ thông, bình quân 10 nhân sự mộtdoanh nghiệp, 20.000 doanh nghiệp giải thể sẽ đưa ra một lượng nhân cônglà 200.000 lao động phổ thông, lao động này không thích nghi với cáckhu công nghiệp (vì không có tính kỷ luật), và cũng không thích nghivới thị trường lao động (vì trình độ tay nghề không có). Và khi họnghỉ thì không có lương, thu nhập và phần cầu trong sức mua sẽ giảmnghiêm trọng.
Nhưng nếu đó là doanh nghiệp vừa thì giải thểnhiều là không bình thường rồi. Doanh nghiệp vừa, chiếm nhữngphân khúc thị trường khác nhau, với những thương hiệu đủ lớn để cạnhtranh. Doanh nghiệp này thường có tồn kho và công nợ cao. Doanhnghiệp vừa phải đi vay mới có đủ nguồn vốn để hoạt động. Cókhi họ vay ở ngân hàng, có khi vay bên ngoài. Doanh nghiệp vừathường nằm trong một chuỗi phân phốinào đó. Tồn kho và công nợ của một doanh nghiệp vừa thường tác động dây chuyền đến nhiều doanhnghiệp khác trong dây chuyền của nền kinh tế. Khi doanhnghiệp vừa giải thể, ngưng hoạt động, hoặc phá sản là báocho thấy hoạt động nền kinh tế đang có những khúc gãy đổ. Nếu sốlượng giải thể, phá sản ít thì phải cân nhắc, nhưng nếu số giảithể nhiều thì phải báo động đỏ. Thường doanh nghiệp này khó chếtvì mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp khác qua số lượng vốn còn tồn nhiều tronghàng hoá tồn kho, lợi thế về thương hiệu và phân khúc thị trường.Nhưng họ ngoắc ngoải nhiều vì không bán được hàng nhưng phải trảlương và các khoản nợ.
Và nếu đó doanh nghiệp lớn thì quả làkhông bình thường. Doanh nghiệp lớn thường chiếmmột phần thị trường hoặc một phân khúc lớn trong thị trường. Doanhnghiệp lớn sống lệ thuộc nhiều vào khoản tiền vay (bao gồmcổ phiếu, đầu tư và vay ngân hàng). Một doanh nghiệp lớn thườnglà chuổi gần hoàn chỉnh. Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tạo ra mộtliên kết ngoài cho doanh nghiệp lớn (như cung cấpdịch vụ, tiêu thụ hàng hoá,v.v...). Tồn kho trong doanh nghiệp lớn thườngchỉ tác động chủ yếu lên bản thân doanh nghiệp, việc tạo ảnh hưởngdây chuyền lên những doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là ít hơn so vớidoanh nghiệp vừa và nhỏ tác động lên doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưngtồn kho trong doanh nghiệp lớn thường ảnh hưởng trực tiếp đến xãhội. Doanh nghiệp lớn khó đi đến phá sản hoặc giải thể bởihọ có đội ngủ quản trị mạnh, quản trị rủi ro tốt, ngoài ra họ còncó nguồn tài chính dồi dào, đa dạng.
Từ phân tích trên ta thấy doanhnghiệp vừa mới là đối tượng cần được cứu, còn doanhnghiệp nhỏ (phần lao động), doanh nghiệp lớn (phần vốnvay, chi phí đầu vào, thị trường đầu ra) là đối tượng phải đượctrợ.
Nhưng hỗ trợ bằng gói hạ lãi suất không giải quyếtđược cơ bản khó khăn doanh nghiệp mà còn gây thêm rối tình hình trongtoàn xã hội, do gói này đưa tiền cho doanh nghiệp để trả các khoảnnợ tài chính trong doanh nghiệp như lương, tiền hàng hoá gối đầu. Saukhi chi lương và trả nợ một đợt, mà hàng vẫn không bán được thìdoanh nghiệp tiếp tục làm gì, ngân hàng có cho doanh nghiệp vay thêmđể tiếp tục trả lương hay trả nợ không. Bài toán ở đây là hàng tồnkho. Sản xuất ra thì lại tồn, sản xuất nhiều tồn nhiều, sản xuấtít, tồn ít. Có thêm tiền là có thêm hàng tồn kho.
Hổ trợ bằng giải pháp giảm thuế cũng vậy, giảm thuế tạm để chở lãi suất cho vaygiảm. Chờ lãi suất cho vay giảm thì bây giờ lấy tiền đâu sảnxuất mà giảm thuế. Và lại bảo chỉ cho vay chứ không giảm luôn thìdoanh nghiệp lấy cơ sở gì để giảm giá bán (khoản nợ trước sau cũngphải trả, không thể bây giờ giảm giá 1 để khi hết thời gian lại tănggiá lên 2 mà thời hạn vay thì có định rõ, còn khủng hoảng thì khôngbiết chừng nào mới hết). Rồi giả sử doanh nghiệp vẫn giảm được giácho lô hàng mới, vậy lô hàng tồn kho tính sao, hay ngân hàng cho doanhnghiệp vay đủ trị giá lô hàng tồn kho để doanh nghiệp có đủ vốn chosản xuất (tổng vốn doanh nghiệp tương đương vốn trong nền kinh tế đangnằm trong hàng tồn kho). Vã lại thu thuế để thực hiện phần chi muacủa nhà nước (chi quản lý công), giảm thuế là giảm thu, giảm thuthuế khiến phải giảm chi nhà nước. Nếu không khéo giảm chi nhà nướclàm giảm luôn sức mua của thị trường (phần chi mua của nhà nước cũnglà một phần trong sức mau thị trường) là làm sai.
Cái quan trọng cần giảiquyết hiện giờ là làm cách gì để tiêu thụ được lượng hàng tồn khocủa các doanh nghiệp, không chỉ doanh nghiệp vừa mà cả những doanhnghiệp lớn. “Tức là hàngđã sản xuất rồi và hiện đang nằm trong kho”. Rồi sau đó mới làgiải pháp giúp giảm chi phí cho doanh nghiệp sản xuất lô hàng mới để có thể bán ra thị trường.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét