17 tháng 5, 2012

Khủng hoảng kinh tế vì đâu ra - Nguyên nhân số 1

Xuất khẩu được giá .
I- Xuất khẩu được giá thường là niềm vui vớingười quản lý nhà nước, bởi vì ai cũng tin người làm xuất khẩuđược lời hơn và vì thế thu nhập của họ sẽ tốt hơn. Xuất khẩu giácao còn tạo ra nguồn ngoại tệ nhiều hơn cho đất nước, nên ít ai nghĩrằng xuất khẩu được giá lại là một trong những nguyên nhân đẩy nướcta vào cuộc khủng hoảng sức mua nghiêm trọng.
II- Trong kinh tế học, một trong những yếu tố cơbản để đảm bảo nền kinh tế phát triển tốt, phải bảo đảm cân đốigiữa với các ngành kinh tế với nhau, nhất là 2 ngành chủ lực côngnghiệp và nông nghiệp. Bởi vì thông thường sản phẩm của ngành nàylà đều là đầu ra của ngành kia. Sự phát triển không cân đối giữa 2ngành sẽ dẩn đến những cuộc khủng hoảng cung cầu mà hiện giờ ta đangvấp phải.
III- Xuất khẩu tăng mạnh mẽ trong thời gian gần đâylà từ những sản phẩm nông nghiệp. Chúng ta có lợi thế về nền nôngnghiệp, nên trong một thời gian ngắn trở thành một nước hàng đầutrong xuất khẩu những sản phẩm nông nghiệp. Trước tình hình sản xuấtthế giới biến động, giá cả tăng cao, xuất khẩu nông nghiệp của tatăng cao. Việc giá xuất khẩu tăng cao, khiến giá thu mua đầu vào tăngcao, đời sống người nông dân cải thiện rất nhiều. Nhưng giá thu muasản phẩm nông nghiệp tăng cao kéo theo giá tiêu thụ sản phẩm nôngnghiệp trong nước cũng tăng cao. Ta thấy giá gạo 64 vào tháng 2 năm2006 là 5.500đ, đến tháng 3 năm 2008 là 9.500đ. Sang năm 2009 là 10.500đ.Đến nay là 13.300đ. Trong vòng 5 năm gạo tăng gần 150%. Tương tự đườngvào tháng 2008 là 7.600đ, hiện nay là 20.000đ tăng 160%. Trong khi thunhập lao động phổ thông trong năm 2008 tương đương 1.800.000 đồng, đến naylà 2.500.000đ tăng 38%.
IV- Việc tăng giácủa sản phẩm nông nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến ngành công nghiệpthông qua 2 vấn đề : đẩy giá nguyên liệu đầu vào tăng cao và ảnhhưởng đến thu nhập người lao động nhất là tầng lớp lao động cấpthấp như lao động phổ thông. Sự giảm thu nhập làm sức ép tăng lươngcho nhân công, vô hình đã làm phá vỡ thế cân bằng giữa chi phí vànăng suất, đẩy doanh nghiệp vào thế phải tăng giá bán. Nếu tăng khôngtheo kịp giá tăng của sản phẩm nông nghiệp thì người công nhân vẫnthiệt, nếu tăng cao hơn sự tăng giá của sản phẩm nông nghiệp thì đờisống của nông dân lại tiếp tục thấp.
V- Trong thị trường sức mua, nếu chỉ nhìn vàoriêng ngành nông nghiệp, theo lý thuyết giá nông sản tăng thì phần cầusức mua tăng. Nhưng trên thực tế không phải vậy vì 3 lý do :
1. Đầu vào ngành nông nghiệp do sử dụng sản phẩm nhậpnhiều nên giá tăng, làm tổng giá thành sản phẩm tăng theo. Thực tếlợi nhuận của nông dân từ việc tăng giá cũng đã giảm.
2. Do giá nông sản tăng gây sức ép lên giá hàngnông nghiệp, đẩy giá hàng công nghiệp lên cao. Khiến thu nhập nông dânlại giảm. Sức mua của thị trường nông nghiệp vì vậy cũng giảm.
3. Do lợi tức của khu vực nông nghiệp tăng cao, nôngdân có 2 khuynh hướng tiêu dùng : Một là xài sang hơn, hai là tích lũytăng, cả hai đều làm giảm sức mua trong thị trường.
VI- Trong thị trườngsức mua, nếu nhìn vào tổng thể, việc tăng giá ngành nông nghiệp đãlàm tổng cung thị trường tăng cao, trong khi tổng cầu trong nông nghiệpkhông tăng tương xứng làm mức chênh lệch giữa cung cầu trong thị trườngsức mua tăng cao. Sự tăng cao làm biến dạng nền kinh tế.
VII- Giá sản phẩmnông nghiệp và sự cân bằng giữa nông nghiệp và công nghiệp là bàitoán không đơn giản để giải với một nước có một nền kinh tế mớiphát triển như nước ta.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét