17 tháng 5, 2012

Khủng hoảng kinh tế vì đâu ra - nguyên nhân số 5

Sai lầm trong điều hành nền kinh tế.
I- Hệ thống tàichính yếu kém.
1. Nhiều nhà kinhtế cho rằng chúng ta phạm sai lầm trong một thời gian dài là tạo ramức cung tiền quá lớn cho thị trường, tạo ra thặng dư nguồn cung đãdẩn đến lạm phát và kết luận việc khủng hoảng hiện nay do sai lầmtrong cung tiền ra thị trường. Thật ra tài chính trong nền kinh tế chỉgiống như cảnh sát giao thông, thường xảy ra kẹt xe, tai nạn giao thông,người ta hay nghĩ đến đó là lỗi của cảnh sát giao thông, nhưng chínhxác thì đó là lỗi của ngành giao thông với vị tư lệnh là ngài bộtrưởng. Còn cảnh sát chỉ là người điều tiết giao thông. Tất nhiênnếu điều tiết kém, thì chính cảnh sát giao thông cũng là một trongnhững thủ phạm của của kẹt xe và tai nạn giao thông. Ngành tài chínhvới bộ mặt là hệ thống ngân hàng cũng vậy, lỗi chính cho khủng hoảngkhông xuất phát từ ngành ngân hàng mà do cách điều tiết của ngânhàng đã góp phần làm cuộc khủng hoảng nhanh hơn và mạnh hơn. Mỗ xẻthất bại của ngân hàng không giải quyết được khủng hoảng nhưng bảođảm rằng, sau khi bắt đầu bước vào việc giải quyết khủng hoảng vàsau khi hoàn tất việc giải quyết khủng hoảng, ta không lại bị sự trìtrệ, yếu kém của ngành tài chính cản trở và nếu kéo.
2. Hai yếu tố sailầm một là mức độ tập trung vốn quá lớn cho từng một ngân hàng khibản thân nó không thể hấp thụ được nguồn vốn đó và hai là không cóchiến lược điều tiết vốn cho thị trường.
3. Trước đợt thànhlập lớn các ngân hàng, đã có nhiều ngân hàng và tổ chức tín dụnghoạt động (gần hết là ngân hàng nhà nước), nhưng các hoạt động mangtính chuyên ngành. Các khoản vay nhỏ, thường là tín chấp, gắn liền vớihoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Người cho vay thường hiểu rõhoạt động của doanh nghiệp nên khoản cho vay thường ổn định. Một đơnvị tín dụng không vốn lớn, quản trị không cao cấp nhưng phù hợp, gắnliền với hoạt động kinh doanh, kinh doanh hiệu quả. Trong một thời giandài sau đổi mới, hệ thống tài chính chưa tốt lắm nhưng vẫn làm trònnhiệm vụ điều tiết vốn cho thị trường đã hỗ trợ cho doanh nghiệpphát triển
4. Khi thị trườngchứng khoán manh nha hình thành, đánh hơi thấy nhu cầu tập trung mộtkhoản vốn lớn, các ngân hàng mới được đua nhau thành lập và bắt đầutập trung những khoản vốn lớn. Tập 1 của khủng hoảng tài chính bắtđầu khi một nguồn vốn lớn trong xã hội trước đó để phát triển kinhdoanh hoặc là nguồn để phát triển kinh doanh được chuyển sang chứngkhoán. Thị trường chứng khoán phát triển nhanh là nguồn vốn đượctập trung càng nhanh. Người ta đua nhau thành lập công ty, cổ phần hóacty, tăng vốn điều lệ công ty để nhằm mục đích kiếm lợi từ sự chênhlệch giá mua bán cổ phiếu mà không nhằm vào hiệu quả hoạt độngdoanh nghiệp. Trong thời kỳ này hàng loạt động sản, bất động sảncủa nhà nước được trả về giá trị thực của nó khi tiến hàng cổphần hóa, khiến thị trường vốn tăng vọt và các ngân hàng vốn lớnđể thỏa mản nhu cầu đó được hình thành.
5. Khi các khoảntập trung biến thành tích tụ, nhất là khi chính phủ ra quyết địnhtăng vốn điều lệ các ngân hàng lên cao. Một phần vốn trong nền kinhtế chảy vào ngân hàng và không quay ra. Vốn được chuyển vào thịtrường chứng khoán dưới nhiều hình thức cho như cho vay chứng khoán,cho vay để cổ phần hóa, cho vay thành lập công ty để có cổ phiếu. Nhưnggiai đoạn này chưa xảy khủng hoảng do vốn ngân hàng tăng nhưng đượcđảm bảo bằng tài sản nhà nước được đánh giá lại trong quá trìnhcổ phần hóa.
6. Tập 2 khủnghoảng đến khi thị trường chứng khoán biến động. Phần lớn vốn trênthị trường chứng khoán rơi vào tay các nhà cơ hội, còn vốn trong nềnkinh tế thì mất theo đà đi xuống của chứng khoán. Để đảm bảo nguồnvốn đang rớt của ngân hàng, chính phủ lại quy định thêm một đợt tăngvốn khác. Đợt này tiếp tục hút lượng lớn vốn trên thị trường vàohệ thống tài chính. Vốn chuyển sang bất động sản đang trên đà hồiphục. Giai đoạn này vốn trong ngân hàng đa phần là nguồn vốn từ nềnkinh tế. Nhưng ngân hàng rời bỏ vị trí là người điều tiết vốn chonền kinh tế mà chuyển sang kinh doanh tiền tệ. Chứng khoán và bấtđộng sản là 2 ngành cho tỉ suất lợi nhuận cao nhất, khả năng tậptrung vốn cao nhất, tỉ lệ rủi ro thất thoát thấp lúc đó đã hấp dẫncác ngân hàng. Sự tập trung thái quá vốn vào 2 ngành ít tạo ra giátrị (không phải giá cả) làm nền kinh tế như gà mắc tóc. Nơi cần vốnđể phát triển (có hiệu quả kinh tế) thì không có vốn, phải tạo vốntừ nhiều nguồn khác, khiến chi phí đẩy lên cao, năng suất lao độnggiảm, giá bán tăng vọt. Các khoản vay không đến được đơn vị kinh doanhhiệu quả. Nền kinh tế đang ăn vào đuôi của mình.
7. Tập 3 của cuộckhủng hoảng xuất hiện khi chính phủ để giảm đà lạm phát (theo cáchnói của chính phủ) hạn chế cung tiền ra thị trường. Việc giảm đàcung tiền này là cú ngáng chân đẩy nền kinh tế sụp đổ. Ngoài vốnngân hàng ngâm trong chứng khoán, bất động sản, hạ tầng, phần lớnvốn chạy vào doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hếtvốn, sản xuất ra không bán được, không có tiền trả lương và tái sảnxuất, khủng hoảng bắt đầu lan rộng.
8. Cú đấm nốc aonền kinh tế là việc bất động sản chết chìm trong tồn kho. Khoản nợbất động sản biến thành khoản nợ xấu kèm theo khoản nợ xấu củachứng khoán còn tồn lại. Ngân hàng hết máu phải sống từ bầu sữacủa nhà nước. Khi khủng hoảng sức mua bắt đầu, ngân hàng cũng bắtđầu thể hiện sự yếu kém của mình : Yếu kém khả năng đầu tư (ngânhàng không thể chỉ có lợi nhuận thuần từ cho vay); yếu kém khả năngquản lý rủi ro; yếu kém trong linh hoạt nghiệp vụ (khó cho doanhnghiệp nhỏ vay vì không bảo đảm rủi ro).
II- Khả năng cungtiền :
1. Chính phủ với cách nhìn thông thường, giá cảtăng, phải cung thêm tiền vào nền kinh tế và kết luận rằng nền kinhtế ta đang lạm phát và áp dụng hàng loạt biện pháp ngăn chặn lạmphát. Như đã nói trên phần nhập khẩu (yếu tố thứ 2), chúng ta khônglạm phát vì vậy các biện pháp để giảm lạm pháp được áp dụng vàotình hình hiện tại có thể tạo ra những sai lầm.
2. Một trong những sai lầm lớn là giảm cung tiền vàonền kinh tế. Khi giá nhập khẩu và xuất khẩu tăng tạo ra một mặtbằng giá mới (lưu ý rằng việc tăng giá này không do ta tự quyết địnhđược, nói chính xác là bắt buộc phải tăng). Việc tăng giá trên sốlượng sản phẩm không đổi như vậy làm tăng tổng trị giá sản phẩmtoàn bộ nền kinh tế. Muốn mua được toàn bộ trị giá sản phẩm đó,nền kinh tế phải có một khoản tiền mặt để thanh toán. Mà tiền mặtđang lưu hành theo tổng trị giá cũ. Nếu không cung thêm tiền cho nềnkinh tế tương xứng số mức đã tăng, nền kinh tế sẽ rơi vào khủnghoảng thanh toán. Và chúng ta thay vì cung thêm tiền cho nền kinh tếlại giảm lạm phát ảo bằng biện pháp giảm cung tiền cho nền kinh tế.
3. Hình dung rằng lúc trước cung tiền ra nền kinhtế là 100.000 tỷ đồng, trong đó phân bổ sai dẩn đến gần 40% trị giácung tiền đó rơi vào tay bất động sản và chứng khoán tương đương40.000 tỷ đồng, nền kinh tế ngoài bất động sản, chúng khoán còn 60%tương đương 60.000 tỷ đồng. Sau đó ta giảm cung tiền còn 80%. Nhưng bấtđộng sản, chứng khoán vẫn hút 40.000 tỷ đồng bây giờ trị giá tươngđối tăng lên 50% và nền kinh tế ngoài bất động sản, chứng khoán giờchỉ còn 50%. Mức giảm chi tiêu thực ra là chỉ giảm cho toàn bộ thịtrường ngoài bất động sản chứng khoán. Với mức giảm đó, bảo đảmtồn kho hàng hoá bên ngoài bất động sản và chứng khoán phải tăng20.000 tỷ đồng, dù phần cung và cầu trong sức mua vẫn có.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét