22 tháng 5, 2012

Khủng hoảng kinh tế Việt Nam rồi sẽ đi đến đâu ?

Điểm lại các bước để nền kinh tế đi vào khủng hoảng.

Bước 1 : Giá cả thế giới tăng, xuất khẩu được lợi do giá xuất khẩu tăng. Xuất khẩu được thúc đẩy phát triển. Giá bán tăng kèm theo giá mua tăng. Các mặt hàng xuất khẩu tốt đa phần là hàng tiêu dùng trong nước. Giá xuất khẩu tăng cao, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, người tiêu dùng trong nước bắt đầu khốn khó nhất là tầng lớp thu nhập thấp. Sức mua từ tiêu dùng dân cư bắt đầu giảm.

Bước 2 : Giá cả thế giới vẫn tăng khiến những mặt hàng nhập khẩu bắt đầu tăng giá theo. Ảnh hưởng nhất trong việc tăng giá là xăng dầu và vàng. Giá nhiên liệu tăng ảnh hưởng trực tiếp vào chi phí doanh nghiệp. Bị hai áp lực một từ chi phí nhiên liệu và nguyên liệu, hai là từ thu nhập người lao động nên doanh nghiệp buộc phải tăng giá bán. Giá bán một doanh nghiệp thường ảnh hưởng dây chuyền những doanh nghiệp khác, nên giá bắt đầu tăng đồng loạt.

Bước 3 : Giá tăng trên toàn xã hội khiến nhà nước giật mình. Thay vì điều chỉnh xuất nhập lại điều chỉnh dòng tiền bằng cách hạn chế để tránh lạm phát. Việc hạn chế này bước đầu chỉ làm ảnh hưởng đến thị trường bất động sản (do thị trường này rất ngốn tiền). Nhưng lỡ cho bất động sản và chứng khoán vay quá nhiều, nay lại bị xiết cung tiền nên dòng tiền đưa ra ngoài thị trường càng bị hạn chế. Cộng bước 1 và bước 2 làm sức mua của doanh nghiệp giảm dần.

Bước 4 : Lo sợ lạm phát, nhà nước xiết chặt chi tiêu công. Chi ít lại, giá cả lại tăng. Sức mua công giảm dần.

Bước 5 : 3 trụ cột trong sức mua là sức mua trong dân, sức mua của doanh nghiệp, sức mua của nhà nước đều giảm. Khủng hoảng sức mua bắt đầu xuất hiện. Một trong những hình thái khủng hoảng là tồn kho bắt đầu tăng cao. Tồn kho tăng, không vay thêm được tiền khiến cho sức mua của 3 bộ phận (dân cư, doanh nghiệp, nhà nước) rơi xuống đáy.

Bước 6 : Doanh nghiệp nhỏ chết trước tiên. Doanh nghiệp nhỏ thường hoạt động riêng rẻ trên những phân khúc ngách của thị trường. Doanh nghiệp nhỏ thường gắn thương hiệu vào sản phẩm và hoạt động bán hàng. Sản phẩm doanh nghiệp nhỏ thường khác biệt và giá cao đánh vào phân khúc giá trung cao của mọi tầng lớp. Tất nhiên doanh nghiệp nhỏ phục vụ cho tầng lớp thu nhập thấp hơn sẽ ra đi trước rồi đến doanh nghiệp nhỏ phục vụ cho tầng lớp thu nhập trung bình.

Bước 7 (bước hiện tại) : Doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp vừa bắt đầu chết. Doanh nghiệp vừa có 2 cách phân loại một là doanh nghiệp riêng rẽ giống như doanh nghiệp nhỏ, hoạt động trên một ngách thị trường, so với doanh nghiệp vừa nhưng hoạt động như một chuổi cung ứng với nhau, sản phẩm và vốn các doanh nghiệp phụ thuộc vào nhau. Hai là phân loại doanh nghiệp theo dạng đầu( sản xuất) cuối (thương mại). Trong bước này những doanh nghiệp vừa riêng rẽ sẽ đi trước kèm theo là hàng loại doanh nghiệp siêu nhỏ nằm trong chuổi phân phối của doanh nghiệp đó.

Dự kiến các bước tiếp theo phương án nhà nước vẫn tiếp tục hỗ trợ như phương án hiện nay.

Bước 8 : Doanh nghiệp vừa không chịu nỗi gánh tồn kho và tuyên bố bỏ cuộc. Sự bỏ cuộc của một doanh nghiệp vừa nằm trong chuổi cung ứng sẽ kéo theo hậu quả khác là doanh nghiệp nằm trong chuổi sẽ chết theo và bùng nổ vở nợ tín dụng dây chuyền. Bùng nổ tín dụng nợ sẽ khởi đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính (giống như cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ).

Bước 9 : Khủng hoảng tài chính bùng nổ. Ngân hàng dư tiền nhưng không cho vay được. Các khoản tín chấp vay trong xã hội hoặc thế chấp trong giai đoạn đầu khủng hoảng biến thành nợ xấu không đòi được. Ngân hàng đi vào phá sản.

Bước 10 : Tỉ lệ sức mua giảm đáy, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao, dòng tiền tắt nghẻn trong lưu thông. Người dân quay về nền kinh tế tự cung tự cấp. Doanh nghiệp vừa tiếp tục phá sản hoặc liên kết lại bao tiêu sản phẩm cho nhau hoặc chỉ sản xuất theo đơn đặt hàng, không nợ tín dụng. Doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chết hết nhưng xuất hiện ngày càng nhiều tiệm bán bách hoá, tạp hoá, kinh doanh gia đình, mua bán lòng vòng cho nhau.

Bước 11 : Doanh nghiệp lớn buộc phải bán tháo tồn kho với giá siêu rẻ để tránh phá sản. Nền kinh tế sẽ hình thành một hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ mới không nợ, không tồn kho, linh hoạt hơn để tiêu thụ được số tồn kho giá siêu rẻ đó.

Bước 12 : Tổng sản phẩm quốc dân sẽ mất giá hoặc suy giảm về lượng, sự suy giảm tiệm cận gần với sức mua, khủng hoảng sức mua chấm dứt.

Cái giá để trả là chúng ta sẽ lùi đi khoảng phát triển nào đó. Nhưng không sao, khủng hoảng rồi sẽ qua đi bởi người dân ta đã có thói quen chịu đựng rồi. Ta chịu được cả ngàn năm chiến tranh, chịu được 10 năm cấm vận, chẳng lẻ không thể vượt qua được khủng hoảng hay sao.

17 tháng 5, 2012

Khủng hoảng kinh tế - tại sao không thể vay ngân hàng trong lúc này

Có 4 nguyên nhân chính khiếnhệ thống ngân hàng, không thể cho vay tốt khi mà lải suất cho vay đãxuống dưới 15%. Khi mà theo thông tin trên các phương tiện truyền thôngrằng đầu vào quá dư dả.
1. Từ khủng hoảng sức mua hiện nay. Khủng hoảngsức mua là doanh nghiệp không bán được hàng vì người mua đã không cònđủ tiền để mua. Hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất số lượng vẫn phùhợp với nhu cầu tiêu dùng. Nhưng người tiêu dùng không còn tiền vàmức tích luỹ dự phòng khủng hoảng tăng cao nên người mua hạn chế rấtnhiều trong chi tiêu. Hệ quả khủng hoảng là hàng tồn kho trên diệnrộng. Với lượng hàng tồn kho như vậy, nếu có cho doanh nghiệp vay,thì họ cũng không dám vay, vì chẳng ai dám chắc tiếp tục sản xuấtthì có bán được hàng hay không. Nếu cần vay trong giai đoạn này, doanhnghiệp vay để trả lương hoặc chi phí để không đi đến con đường phásản hoặc giải thể.
2. Lãi suất 15%, tuy đã giảm nhưng vẫn còn quácao. Những doanh nghiệp hiện còn đang tồn tại hoặc đang cố tồn tạiđều ý thức rằng, muốn bán được hàng phải giảm giá bán. Việc giảmgiá bán dưới nhiều hình thức như hạ giá, khuyến mãi. Trong một hoạtđộng kinh doanh thông thường mức lợi nhuận bình quân một năm khoãng 15%được xem là quá tốt. Nếu doanh nghiệp nào có đủ vốn để hoạt động(thông qua chứng khoán, hoặc cổ đông), vốn vay chỉ đáp ứng nhu cầutình huống khẩn cấp như nhập hàng, thanh toán công nợ, trả lương khichưa đến hạn kỳ thanh toán, thì mức vay 15% còn có khi chịu đựngđược. Nay toàn bộ vốn doanh nghiệp nằm trong hàng tồn kho, tìm kiếmthêm nguồn vốn mới trong thị trường chứng khoán, trong kênh đầu tư tàichính là điều khó khăn, thì việc vay toàn bộ vốn cho hoạt động sảnxuất kinh doanh tại ngân hàng với mức lãi suất 15% thì giá bán chỉcó tăng chứ không thể hạ.
3. Ngân hàng vốn dĩ là một trong những công cụđiều tiết vốn cho nền kinh tế. Trong hoạt động kinh tế thông thườngnền kinh tế như bề mặt của mặt đất, địa hình lồi lõm, cao thấp bấtthường. Chổ lõm là nơi cần vốn, chổ cao là nơi chống trời. Khôngphải cứ doanh nghiệp lớn mới cần vốn và cũng không phải doanh nghiệplớn mới thúc đẩy được nền kinh tế phát triển. Mà trái lại doanhnghiệp vừa mới là nơi thúc đẩy nền kinh tế thông qua việc lắp đặtnhững nhông xe vào giữa các doanh nghiệp lớn, khiến nền kinh tế vậnhành được trơn tru. Khi nền kinh tế phát triển tốt, các doanh nghiệplớn sẽ là đầu tài kéo theo các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng khinền kinh tế đi vào khủng hoảng, các doanh nghiệp lớn dừng lại, phảicần có doanh nghiệp vừa và nhỏ để kết nối và lắp đầy vào nhữnglổ hổng do doanh nghiệp lớn tạo ra. Phân bổ nguồn vốn vay trong giaiđoạn này phải phân bổ vào doanh nghiệp vừa và nhỏ mới hợp lý. Doanhnghiệp vừa thường là một mắt xích trong một dây chuyền, cứu đượcmột doanh nghiệp vừa là cứu cả dây chuyền. Vả lại vốn cho một doanhnghiệp vừa thấp hơn nhiều so với một doanh nghiệp lớn, với từng sốvốn đó, có thể cứu được nhiều doanh nghiệp vừa hơn là cứu một doanhnghiệp lớn. Nhưng hệ thống ngân hàng của ta chỉ chăm vào các doanhnghiệp lớn. Quản trị về khách hàng của hệ thống ngân hàng có vấnđề. Do tỉ lệ chênh lệch giữa tiền gửi và tiền vay cao, ngân hàng gầnnhư có khuynh hướng lấy tiền gửi cho đi vay và vì thế tạo ra lợinhuận. Chính động thái này, khiến khách hàng co cụm về những doanhnghiệp có khả năng vay. Trong khi thực ra lợi nhuận chính của hệthống tài chính là đầu tư. Đầu tư tài chính mang lại một khoản lợinhuận bao giờ cũng cao hơn chênh lệch lải suất, nhờ đó ngân hàng mớicó thể giảm lải suất tiền vay mà không ảnh hưởng đến lợi nhuận.Ngân hàng bây giờ không kiếm khách hàng để đầu tư mà chỉ tập trungtìm kiếm khách hàng muốn vay nợ. Khi khách hàng không dám vay nợ ngânhàng không thể kiếm được khách đầu ra nào khác.
4. Quản trị khách hàng có vấn đề vì sao, vìquản trị rủi ro quá kém. Cho vay là chấp nhận rủi ro, đầu tư làchấp nhận rủi ro lớn hơn nhiều. Lớn thuyền thì lớn sóng. Lợi nhuậntốt hơn thì rủi ro đầu tư cao hơn. Không chấp nhận rủi ro, cho vay cònkhông được chứ nói chi đến đầu tư. Mà lổi này do quản lý nhà nước.Liên tục yêu cầu ngân hàng tăng vốn, khiến mỗi ngân hàng trở thànhmột võ sĩ Summo, quá khổ. Hoạt động ngân hàng hiện giờ như là mộthoạt động hỗ lốn, gọi là kinh doanh tài chính tổng hợp, đâu có lờithì đầu tư. Ngân hàng không chuyên ngành, không cán bộ chuyên trách trêntừng lãnh vực sản xuất làm sao đối diện với rủi ro trong đầu tư kinhdoanh. Ngân hàng và hệ thống tài chính quốc gia mà không quản trịđược rủi ro để không dám đầu tư hoặc cho vay kinh doanh thì nền kinhtế chết chắc.
Nguyên nhân 1 là nguyên nhân khách quan trên thịtrường, nguyên nhân thứ hai một nửa là thị trường, một nữa là do ngânhàng. Nguyên nhân 3,4 là hoàn toàn do chủ quan ngân hàng.
Tin xấu là sửa sai cho những nguyên nhân trênphải có thời gian. Nhưng tin tốt là ngân hàng không phải là nguyên nhânchính cho cuộc khủng hoảng sức mua hiện nay. Muốn giải quyết đượckhủng hoảng phải giải quyết được nguyên nhân thứ nhất mà đó làngoài tầm với của hệ thống tài chính. Trong thời gian chính phủ xửlý sức mua (cân đối cung cầu trong sức mua), hy vọng hệ thống ngânhàng sẽ giải được hai bài toán về quản trị khách hàng và quản trịrủi ro. Phần cung và cầu trong sức mua tuy cân đối, nhưng cung cầu cógặp nhau hay không là nhờ sự điều tiết của hệ thống tài chính màdẩn đầu là hệ thống ngân hàng.

Khủng hoảng kinh tế - gói cứu trợ không thể đạt mục đích

Không thể sản xuất một mónhàng mà không biết người sử dụng có dùng được sản phẩm đó haykhông. Giải cứu doanh nghiệp phải căn cứ trên doanh nghiệp, Một góikích cầu lớn mà không tìm đúng địa chỉ thì còn tác hại nhiều hơnlà không có gói kích cầu. Câu hỏi là tại sao lại kích cầu và câutrả lời là doanh nghiệp khó khăn đi đến hồi phải giải thể. Nói thếmà đưa ra kích cầu bằng cách giảm thuế và giảm lãi suất là kíchkhông đúng chổ. Khủng hoảng xảy ra một thời gian dài, thông tin vềdoanh nghiệp đã và đang giải thể ngày càng nhiều, nhưng không thấybất kỳ một động thái nào của các cơ quan chức năng để thực hiệnthống kê chi tiết việc giải thể đó để có cách nhìn đúng đắn vềtình hình kinh tế nước ta. Phải biết ai giải thể thì mới có thểthực hiện thành công gói kích cầu.
Nếu đó là doanh nghiệp siêu nhỏ, giải thểlà điều bình thường, bởi doanh nghiệp siêu nhỏ đôi khi chỉlà một cửa hàng hoặc tương đương, họ cần uy tín hơn là thương hiệu.Có nhiều cửa hàng kinh doanh bị ép lên doanh nghiệp siêu nhỏ,nay nhân cơ hội này họ xin giải thể doanh nghiệp để không phải chịuthêm nhiều chi phí không hợp lý. Doanh nghiệp này mang tiếng giải thểnhưng đôi phần chỉ có giá trị pháp lý vì họ vẫn có thể tiếp tụchoạt động nhưng không còn là doanh nghiệp mà thôi.
Nếu đó là doanh nghiệp nhỏ đã là hơi khôngbình thường. Ở nước ta, doanh nghiệp nhỏ thường là từvốn gia đình, hùn vốn với bạn bè mà ra. Doanh nghiệp nhỏ thườngtìm một ngách khuất nào đó của thị trường để bán hàng và xây dựngthương hiệu. Các ngách này thường riêng biệt nên giá trị và giá cảsản phẩm thường cao hơn giá bình quân, hàng tồn kho thường không cóhoặc có rất ít. Vào giai đoạn khủng hoảng hiện nay, việc biến mấtcác doanh nghiệp này cũng là bình thường, bởi vì bản thân các doanhnghiệp này rất năng động, họ không đi vay, nếu có vay thì là vay thờivụ, khi khủng hoảng họ co lại để bảo toàn vốn. Doanh nghiệp nàythường khó chết, chỉ ngưng hoặc tạm ngưng hoạt động. Doanhnghiệp nhỏ giải thể không lo lắm vì khi điều kiện kinh tế tốtra những doanh nghiệp này sẽ lại mọc ra bình thường. Nhưng điều khôngbình thường là doanh nghiệp này thường có một đội ngũ nhân sự vớitrình độ gần hết là lao động phổ thông, bình quân 10 nhân sự mộtdoanh nghiệp, 20.000 doanh nghiệp giải thể sẽ đưa ra một lượng nhân cônglà 200.000 lao động phổ thông, lao động này không thích nghi với cáckhu công nghiệp (vì không có tính kỷ luật), và cũng không thích nghivới thị trường lao động (vì trình độ tay nghề không có). Và khi họnghỉ thì không có lương, thu nhập và phần cầu trong sức mua sẽ giảmnghiêm trọng.
Nhưng nếu đó là doanh nghiệp vừa thì giải thểnhiều là không bình thường rồi. Doanh nghiệp vừa, chiếm nhữngphân khúc thị trường khác nhau, với những thương hiệu đủ lớn để cạnhtranh. Doanh nghiệp này thường có tồn kho và công nợ cao. Doanhnghiệp vừa phải đi vay mới có đủ nguồn vốn để hoạt động. Cókhi họ vay ở ngân hàng, có khi vay bên ngoài. Doanh nghiệp vừathường nằm trong một chuỗi phân phốinào đó. Tồn kho và công nợ của một doanh nghiệp vừa thường tác động dây chuyền đến nhiều doanhnghiệp khác trong dây chuyền của nền kinh tế. Khi doanhnghiệp vừa giải thể, ngưng hoạt động, hoặc phá sản là báocho thấy hoạt động nền kinh tế đang có những khúc gãy đổ. Nếu sốlượng giải thể, phá sản ít thì phải cân nhắc, nhưng nếu số giảithể nhiều thì phải báo động đỏ. Thường doanh nghiệp này khó chếtvì mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp khác qua số lượng vốn còn tồn nhiều tronghàng hoá tồn kho, lợi thế về thương hiệu và phân khúc thị trường.Nhưng họ ngoắc ngoải nhiều vì không bán được hàng nhưng phải trảlương và các khoản nợ.
Và nếu đó doanh nghiệp lớn thì quả làkhông bình thường. Doanh nghiệp lớn thường chiếmmột phần thị trường hoặc một phân khúc lớn trong thị trường. Doanhnghiệp lớn sống lệ thuộc nhiều vào khoản tiền vay (bao gồmcổ phiếu, đầu tư và vay ngân hàng). Một doanh nghiệp lớn thườnglà chuổi gần hoàn chỉnh. Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tạo ra mộtliên kết ngoài cho doanh nghiệp lớn (như cung cấpdịch vụ, tiêu thụ hàng hoá,v.v...). Tồn kho trong doanh nghiệp lớn thườngchỉ tác động chủ yếu lên bản thân doanh nghiệp, việc tạo ảnh hưởngdây chuyền lên những doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là ít hơn so vớidoanh nghiệp vừa và nhỏ tác động lên doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưngtồn kho trong doanh nghiệp lớn thường ảnh hưởng trực tiếp đến xãhội. Doanh nghiệp lớn khó đi đến phá sản hoặc giải thể bởihọ có đội ngủ quản trị mạnh, quản trị rủi ro tốt, ngoài ra họ còncó nguồn tài chính dồi dào, đa dạng.
Từ phân tích trên ta thấy doanhnghiệp vừa mới là đối tượng cần được cứu, còn doanhnghiệp nhỏ (phần lao động), doanh nghiệp lớn (phần vốnvay, chi phí đầu vào, thị trường đầu ra) là đối tượng phải đượctrợ.
Nhưng hỗ trợ bằng gói hạ lãi suất không giải quyếtđược cơ bản khó khăn doanh nghiệp mà còn gây thêm rối tình hình trongtoàn xã hội, do gói này đưa tiền cho doanh nghiệp để trả các khoảnnợ tài chính trong doanh nghiệp như lương, tiền hàng hoá gối đầu. Saukhi chi lương và trả nợ một đợt, mà hàng vẫn không bán được thìdoanh nghiệp tiếp tục làm gì, ngân hàng có cho doanh nghiệp vay thêmđể tiếp tục trả lương hay trả nợ không. Bài toán ở đây là hàng tồnkho. Sản xuất ra thì lại tồn, sản xuất nhiều tồn nhiều, sản xuấtít, tồn ít. Có thêm tiền là có thêm hàng tồn kho.
Hổ trợ bằng giải pháp giảm thuế cũng vậy, giảm thuế tạm để chở lãi suất cho vaygiảm. Chờ lãi suất cho vay giảm thì bây giờ lấy tiền đâu sảnxuất mà giảm thuế. Và lại bảo chỉ cho vay chứ không giảm luôn thìdoanh nghiệp lấy cơ sở gì để giảm giá bán (khoản nợ trước sau cũngphải trả, không thể bây giờ giảm giá 1 để khi hết thời gian lại tănggiá lên 2 mà thời hạn vay thì có định rõ, còn khủng hoảng thì khôngbiết chừng nào mới hết). Rồi giả sử doanh nghiệp vẫn giảm được giácho lô hàng mới, vậy lô hàng tồn kho tính sao, hay ngân hàng cho doanhnghiệp vay đủ trị giá lô hàng tồn kho để doanh nghiệp có đủ vốn chosản xuất (tổng vốn doanh nghiệp tương đương vốn trong nền kinh tế đangnằm trong hàng tồn kho). Vã lại thu thuế để thực hiện phần chi muacủa nhà nước (chi quản lý công), giảm thuế là giảm thu, giảm thuthuế khiến phải giảm chi nhà nước. Nếu không khéo giảm chi nhà nướclàm giảm luôn sức mua của thị trường (phần chi mua của nhà nước cũnglà một phần trong sức mau thị trường) là làm sai.
Cái quan trọng cần giảiquyết hiện giờ là làm cách gì để tiêu thụ được lượng hàng tồn khocủa các doanh nghiệp, không chỉ doanh nghiệp vừa mà cả những doanhnghiệp lớn. “Tức là hàngđã sản xuất rồi và hiện đang nằm trong kho”. Rồi sau đó mới làgiải pháp giúp giảm chi phí cho doanh nghiệp sản xuất lô hàng mới để có thể bán ra thị trường.

Khủng hoảng kinh tế - 13 giải pháp cơ bản

A. Nguyên tắc :
I- Mâu thuẩn chính trong cuộc khủng khoảng hiện naylà cung và cầu trong phần sức mua. Thông thường khi phần cung tăng lênphần cầu sẽ tăng lên tương ứng. Giữa cung và cầu trong sức mua luôntồn tại những mâu thuẩn và tự nó thống nhất lại để đưa nền kinh tếphát triển lên. Nhưng có một lúc nào đó mâu thuẩn này không thểthống nhất được và nó sẽ dẩn ta đến đối kháng thông qua một cuộckhủng hoảng đó là cuộc khủng hoảng hiện nay – khủng hoảng sức mua.Phương thức giải quyết là làm giảm tổng cung trong sức mua và làmtăng tổng cầu trong sức mua, đồng thời hiệu chỉnh chính sách quản lýnhà nước hổ trợ tốt nhất việc vận hành các giải pháp.
II- Nguyên tắc thứ nhất : Nhà nước chịu phần chínhtrong việc tăng tổng cầu trong sức mua, doanh nghiệp là chính trong làmgiảm tổng cung trong sức mua. Và nhà nước có trách nhiệm hổ trợdoanh nghiệp để có thể giảm giá đến mức có thể.
III- Nguyên tắc thứ hai : Doanh nghiệp phải giảm giábán sản phẩm. Giảm giá sản phẩm nhưng không được giảm số lượng sảnphẩm.
1. Trong 2 cấu thành của phần cung là số lượng vàgiá bán. Để giải quyết mâu thuẩn thông thường của sức mua, số lượngbao giờ cũng được chọn bởi vì nó làm giảm tổng cung ngay tức thời.Nhưng trong cuộc khủng hoảng đến hồi đối kháng trong sức mua, phần sốlượng không được chọn bởi vì giảm số lượng cũng đồng nghĩa vớigiảm sức mua, nghĩa là doanh nghiệp thu hẹp sản xuất thì nhân sự,vật tư, thuế đều giảm. Vả lại khủng hoảng của chúng ta không bắtnguồn từ nội tại nền kinh tế, nên không có sự mất cân đối giữa sảnxuất và tiêu dùng, giảm số lượng lại là giảm cung cho thị trườngtrong khi cầu không thay đổi có thể làm nảy sinh cuộc khủng hoảng mới.
2. Không chỉ đơn thuần là giảm giá bán mà cònphải là phong trào, mệnh lệnh cho tất cả các doanh nghiệp đồng thựchiện. Việc giảm tổng cung cho sức mua chỉ có giá trị khi tất cả cácdoanh nghiệp trong nền kinh tế cùng tham gia và được sự ủng hộ hếtmình của nhà nước và nhân dân.
IV- Nguyên tắc thứ 3 : Minh bạch, công khai, đồngthuận giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân giúp tạo niềm tin lẩnnhau trong việc cùng vượt qua khủng hoảng.

B. Giảm phần cung trong sức mua - chủ yếu là do doanhnghiệp thực hiện bao gồm các giải pháp.
I- Giải pháp 1 : xác định lại cơ cấu kinh doanh,mối quan hệ giữa cung cầu, giá cả.
II- Giải pháp 2 : Hạ thấp những chi phí mất luôn.
III- Giải pháp 3 : Hạ giá sản phẩm.
Chiết giảm chi phí theo các tiêu chí sau :
Tiêu chí
Biến phí
Định phí
Chi phí tạo giá trị sản phẩm
1
2
Chi phí làm tăng giá trị sản phẩm
3
4
Chí phí tạo dựng giá trị gia tăng
5
6
Chi phí làm tăng giá bán sản phẩm
7
8

o Phân loại tất cả các chi phí phát sinh trongdoanh nghiệp theo tiêu chí trên. Lưu ý có nhiều chi phí thuộc trongnhiều tiêu chí, vẫn phải ghi đủ.
o Chiết trừ chi phí theo nguyên tắc từ số lớntrừ trước, đến số nhỏ dần. VD : Quà tặng cho khách hàng tham quannằm trong chi phí làm tăng giá bán thuộc phần định phí phải đượcgiảm trừ đầu tiên so với chi phí quà tăng khuyến mãi kèm theo sảnphẩm cũng thuộc chi phí làm tăng giá bán nhưng lại thuộc phần biếnphí.
o Những chi phí cùng nằm trên nhiều tiêu chí thìtuỳ vào mức độ mà quyết định.

C. Tăng phần cầu trong sức mua – chủ yếu do nhà nướcthực hiện bao gồm các giải pháp.
I- Giải pháp 4 : Cung tiền lại cho nền kinh tế trêncơ sở tính toán phần tăng của tổng cung xã hội có chiết trừ phầngiảm giá bán do thực hiện giải pháp 3.
1. Việc cung tiền này không làm tăng phần cầu củasức mua cũng không làm giảm phần cung của sức mua, nó chỉ là một conốc giúp cho việc vận hành bộ máy giữa cung cầu trong sức mua đượctốt. Việc cung tiền này cũng không được coi như một khoản cứu trợ,chỉ đơn thuần đưa ra một lượng tiền vừa đúng khoản chênh lệch thiếuhụt tiền do sự mất cân đối giữa tổng giá mua bán.
2. Vì vậy việc cung tiền kỳ này bảo đảm làkhoản đầu tư hơn là khoản vay. Cung cho các doanh nghiệp chủ yếu đểtái sản xuất chứ không phải để chạy tiền trả lương, hao phí trongdoanh nghiệp.
3. Cung tiền cho những doanh nghiệp cam kết và đãthực hiện một phần việc giảm giá bán trên toàn bộ sản phẩm củamình. Ưu tiên cung tiền cho những doanh nghiệp, ngành và vùng (cụ thể)có hiệu quả kinh tế cao. Cung tiền có thời hạn. Và tuyệt đối không đểtiền được cung kỳ này chảy vào thị trường chứng khoán và bất độngsản.
4. Việc cung tiền trên toàn bộ nền kinh tế phảicó giới hạn số lượng và thời gian. Số lượng sẽ giảm dần theo mứcđộ giảm giá của doanh nghiệp, cân nhắc khi tồn kho bắt đầu giảm vàngưng khi tồn kho có dấu hiệu trở về mức bình thường.
II- Giải pháp 5 : Hợp lý hóa các khoản chi côngcủa nhà nước.
1. Hạn chế đến mức các khoản chi công làm tăng haophí mất đi như mua xe hơi, xây mới nhà, trụ sở vẫn còn sử dụng đượcv.v…
2. Chi công chỉ được mua sản phẩm trong nước. Muốnmua sản phẩm nhập phải có hội đồng xét duyệt.
3. Giảm tối đa việc chi hoa hồng cho chi mua công,nhằm hỗ trợ doanh nghiệp giảm giá bán.
Lưu ý chi công là một phần trong phần cầu củasức mua. Giảm chi công bất hợp lý cũng sẽ làm giảm sức mua.
III- Giải pháp 6 : Xiết chặt việc nhập khẩu hàngtiêu dùng và hạn chế hợp lý nhập khẩu hàng phục vụ sản xuất, đặcbiệt những mặt hàng đã trong nước đã sản xuất được.
1. Xiết chặt không phải ngăn cấm, mọi giải phápxiết phải tuân theo quy luật thị trường tránh dùng các biện pháphành chánh. Ưu tiên xiết các khoản tiêu dùng trước, sau đó xiết nhậpkhẩu phần nguyên vật liệu đã chế biến thành bán thành phẩm. Chỉ ưutiên nhập nguyên liệu thô, tinh.
o VD để xiết việc nhập khẩu siêu xe hơi đời mới,không thể ra lệnh cấm vì tiêu dùng là quyền của người có thu nhập.Xiết nhập khẩu bằng một lập luận, nhà nước tôn trọng quyền tiêudùng của mọi người bình đẳng trước pháp luật, nghĩa là ai có đóngthuế thu nhập đầy đủ và phù hợp với mức chi mua xe hơi sang thì đượcquyền mua xe sang. Những ai không có đóng thuế thu nhập đầy đủ phảichịu thêm một khoản thuế khác tương đương với khoản thuế thu nhập vàmột khoản hỗ trợ chênh lệch thu nhập, và họ vẫn được mua siêu xe sangtrọng.
2. Ưu đãi thuế và lãi suất ngân hàng cho nhữngdoanh nghiệp sản xuất nhập hàng nguyên liệu tinh thô để làm bán sảnphẩm phục vụ cho nhu cầu sản xuất của các ngành khác.
IV- Giải pháp 7 :Đánh thuế hàng xuất khẩu. Tổ chức thực hiện luật thuế thu nhập.
V- Giải pháp 8 : Xâydựng chuẩn về việc phân chia thu nhập trong cơ quan, doanh nghiệp nhànước.
VI- Giải pháp 9 : Cơcấu lại hệ thống tài chính.
1. Hiệu chỉnh hệ thống tài chính theo hướng gắnliền với hoạt động kinh doanh với trọng tâm là doanh nghiệp. Nên hìnhthành những cấp khác nhau trong ngân hàng ví dụ cấp 1 là ngân hàngnhà nước là cấp quản lý, cấp 2 là ngân hàng thương mại đa ngànhphục vụ cho các công ty lớn (không phân biệt doanh nghiệp nhà nước, tưdoanh hay liên doanh), cấp 3 là ngân hàng thương mại chuyên ngành chuyênphục vụ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, cấp 4 là hệ thống tín dụnggắn liền theo khu vực chuyên phục vụ cho tiểu thương, bám chợ, khuthương mại nhỏ. Tránh việc tập trung vốn lớn cho một ngân hàng lạihoạt động trên nhiều lãnh vực riêng rẻ do khả năng quản trị tàichính của ta còn yếu.
2. Xây dựng các tiêu chí để đánh giá, phân loạingân hàng theo hướng đầu tư mang lại hiệu quả kinh doanh cho toàn xãhội. Mỗi cấp loại ngân hàng đều có tiêu chí về vốn về đối tượngcho vay, số lượng tiền được vay, tỉ lệ tiền vay và khoản đầu tư, lãisuất v.v..Phải có đánh giá hằng năm về hiệu quả xã hội các khoảnvốn vay và đầu tư của từng ngân hàng. Phải tập thành thói quen vềsự phá sản của cơ sở tài chính, tín dụng nào làm ăn yếu kém.
3. Xây dựng một bản đồ hiệu quả kinh doanh củanền kinh tế theo từng loại ngành sản xuất, từng vùng sản xuất đểlập ra một chiến lược đầu tư. Chiến lược đó phải xác định được tỉsuất lợi tức và tỉ suất rủi ro làm cơ sở chuẩn cho hệ thống tàichính tính toán các khoản vay và đầu tư của mình.
VII- Giải pháp 10 : Sử dụng bất động sản vàchứng khoán là bàn đạp hút vốn vào nền kinh tế, tạo dòng tiền tươivới lãi suất thấp.
1. Thay đổi chính sách đầu tư : chỉ những dự ánbất động sản nào có tối thiểu 2/3 số lượng đơn vị nhà được mua vàkhách hàng đăng ký mua phải thanh toán tối thiểu 2/3 trị giá đơn vịnhà mới được khởi công. Đặt mới quy định đầu tư : Các khoản tiền thuđược cho dự án bất động sản phải do ngân hàng giữ và chỉ giải ngântheo tiến độ thi công. Ngân hàng căn cứ trên số tiền thu được để giảingân và cho doanh nghiệp vay thêm tiền để thực hiện dự án. Khoản kýgửi này không được tính lãi suất khi gửi vào ngân hàng. Ưu thế củaphương án này là không còn dự án ngâm vốn. Ngân hàng vừa có tiền,vừa có thể cho vay có thế chấp. Vừa có khả năng thu nợ vừa bảo đảmtiền lãi. Người tiêu dùng chịu giá nhẹ hơn do không phải chịu toànbộ lãi suất ngân hàng cho việc thực hiện dự án. Nguốn vốn của nhàđầu tư mua nhà được nhà nước bảo đảm (thông qua ngân hàng).
2. Dùng vốn ký quỹ tại ngân hàng của doanh nghiệpthực hiện công việc :
a. Ứng một phần vốn để thực hiện dự án bấtđộng sản – phần này không tính lãi suất.
b. Cho ngân hàng thương mại vay lại với lãi suấtthấp. Lập điều kiện để vay và lập hội đồng nghiệm thu để xác địnhngân hàng đủ điều kiện vay - một trong những yếu tố khiến ngân hàngđủ điều kiện là đã hạ lãi suất cho vay, Với lãi suất cho vay từngân hàng trung ương thấp chính phủ có thể khống chế khiến thịtrường lãi suất ngân hàng phải giảm xuống.
c. Khoản lãi suất được tạo ra từ ngân hàng trungương cho ngân hàng thương mại vay sẽ được dùng hổ trợ cho chủ đầu tưđang có dự án bất động sản ngâm vốn. Khoản hổ trợ này không nhằmbiến chính phủ thành nơi kinh doanh mà là hổ trợ cho doanh nghiệp đểthúc đẩy việc bán nhà và hoàn nợ cho ngân hàng. Việc giảm giá căntrên 3 yếu tố : khoản hổ trợ chính phủ, khoản chấp nhận lổ củadoanh nghiệp (không phải giảm lởi), khoản chấp nhận lổ của ngân hàng.Khoản hổ trợ thông qua nhiều hình thức như mua lại dự án giá vốn, chodoanh nghiệp vay không lãi suất để trả lãi suất cao cho lô hàng cũ, v.v…
d. Về nguyên lý cơ bản, kế hoạch này là khởi đầucho việc đưa nên kinh tế thoát khỏi khủng hoảng thông qua việc chỉ cónhững bất động sản nào có người mua mới được thực hiện. Dòng tiềntươi xuất hiện. Nếu dòng tiền này chảy ra mạnh từ những tầng lớpgiàu có (từ vốn đóng băng do thu nhập cao, nhưng tiêu dùng thì ít) sẽgiúp giảm bớt áp lực do lạm phát ảo (tiêu dùng ngoại nhập) và tăngthêm tổng mức chi tiêu xã hội (tăng phần cầu trong sức mua, tạo việclàm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, tạo các khoản thu cho chính phủ).
3. Thực hiện chính sách mới khác, biến khoản đầutư vào bất động sản thành chứng khoán có thời hạn. Chính sách nàyphù hợp với việc thành lập các khu dân cư mới, đô thị mới. Cổ phiếuđược hình thành từ các khoản đầu tư. Các khoản đầu tư bao gồm toànbộ vốn góp trong dự án đó. Vốn góp gồm các khoản như trị giá đấtđai (khoản đền bù cho dân và khoản đất công), trị giá đầu tư cơ sởhạ tầng khu vực, toàn bộ tiền măt đầu tư trong dự án v.v… Khi thựchiện việc này ta sẽ đạt được các khoản lợi ích :
a. Trị giá đất đai không phải đền bù mà biếnthành cổ phiếu. Không phải tốn vốn cho đền bù. Cổ phiếu có giá trịnhư khoản đầu tư và người chủ đầu tư (chủ đất) được lợi trên khoảnđầu tư của dự án thông qua chia lãi cuối kỳ và khoản lợi do tham giamua bán trên thị trường cổ phiếu. Cổ phiếu loại này có giá trị bảochứng trên trị giá miếng đất, nên người nắm giữ cổ phiếu ban đầu làcổ phiếu gốc. Không tốn tiền đền bù lại được tiền khi cổ phiếu đótham gia thị trường chứng khoán.
b. Được lòng dân do không phải tính trị giá đềnbù rồi sau đó người dân mất đất và ra đi với trị giá đền bù ítỏi. Người chủ đất, cùng nhà nước, cùng với chủ đầu tư chia lợi trênmảnh đất đó. Nhà nước bảo đảm với chủ đất bằng hình thức giámsát nghiêm ngặt việc thực hiện nhà đầu tư thực hiện dự án.
c. Thị trường cổ phiếu sẽ tăng thêm nguồn vốn,nguồn vốn được bảo đảm bằng trị giá đất, người muốn mua nhà sẽ dễdàng tìm mua nhà phù hợp giá cả. Nhà nước, doanh nghiệp thực hiệndự án sẽ được lợi về vốn và chi phí từ thị trường chứng khoán.
VIII- Giải pháp 11 :Kích thích tiêu dùng, ngăn cản mọi ý định tích lũy trong dân lẫntrong nhà nước.
IX- Giải pháp 12 : Cơcấu lại doanh nghiệp nhà nước.
X- Giải pháp 13 : Giảm các khoản thuế, phí, lệphí, lãi vay cho doanh nghiệp.
1. Một trong nguyên tắc đầu tiên để thực hiện việcgiảm thuế là xem xét việc giảm này có ảnh hưởng đến sức mua củanhà nước không? Khoản thu nhà nước được chia làm 2 khoản để chi, mộtđể đầu tư cơ sở hạ tầng, khoản chi này sẽ được xếp vào doanh nghiệpchi, khoản chi thứ hai là để chi cho phục vụ bộ máy nhà nước hoạtđộng gọi là chi công. Chi mua nhà nước cũng là một bộ phần cấuthành trong phần cầu của sức mua. Giảm thuế mà giảm luôn sức mua thìkhông phải biện pháp đúng. Để tính được mức giảm như thế nào làhợp lý xin lưu ý hai vấn đề :
a. Giá bán giảm làm doanh thu tăng lên. Phải tínhtoán, thống kê được từng bước giảm giá sẽ tạo hiệu quả doanh thu nhưthế nào để chọn phương án giảm giá bán tối ưu. Giảm thuế sẽ làmgiảm giá bán. Giảm bao nhiêu thuế sẽ là giảm bao nhiêu giá bán. Chọnphương án mức giảm thuế thấp nhất cho mức giảm giá bán cao nhất.
b. Mức giảm thuế phải được chiết tính đồng thờimức tăng doanh thu để đảm bảo việc giảm thuế và việc tăng doanh thukhiến tổng thuế thu được, tăng giảm đều nhau.
2. Nguyên tắc thứ hai, mức giảm phải tính đượctrên hàng tồn kho, không phải giảm cho hàng sắp sản xuất. Cái quantrọng hiện giờ, doanh nghiệp phải giải quyết số hàng còn tồn kho,khi doanh nghiệp giải quyết được hàng tồn là tự nhiên ta có mộtlượng vốn lớn đưa vào luu thông. Mọi hành động giảm thuế phải căn cứvào lượng hàng tồn kho. Nên có một lộ trình cụ thể trong việc giảmcác mức thuế, phí, lệ phí, lãi vay. Bước đầu tiên giảm thuế VAT,giảm thuế lợi tức sau đó giảm phí và lệ phí, lãi suất giảm saucùng.
a. Thuế VAT và thuế lợi tức được hạch toán trựctiếp vào giá, phải được giảm đầu tiên. Việc giảm này được coi nhưkhoản hổ trợ có điều kiện để doanh nghiệp giảm giá bán hàng tồnkho. Lưu ý hỗ trợ có điều kiện là doanh nghiệp phải giảm giá bán,chỉ những doanh nghiệp được xác nhận của cục thuế hoặc cơ quan tươngđương mới được giảm thuế. Thứ hai hỗ trợ có điều kiện là doanhnghiệp chỉ được hỗ trợ giảm thuế trong thời gian nhất định để tiêuthụ hết hàng tồn. Khi hàng tồn đã hết, doanh nghiệp vẫn được hổtrợ qua hình thức giảm thuế, nhưng là nhà nước cho doanh nghiệp mượntrong một thời gian nhất định. Khi nhà nước tuyên bố hết khủng hoảnglà doanh nghiệp phải từ từ trả lại các khoản thuế đã giữ.
b. Phí và lệ phí thường được thực hiện trong quátrình lưu thông sản phẩm, nên được chiết tính để giảm bước thứ nhì.Việc giảm phí và lệ phí giúp doanh nghiệp thực hiện việc lưu thônghàng hoá tốt và không tốn thêm lệ phí (không tăng giá bán).
c. Lãi suất vay ngân hàng và các định chế tàichính phải được giảm trước khi doanh nghiệp bắt đầu tái sản xuất.Việc giảm tại thời điểm này hổ trợ cho doanh nghiệp trong việc địnhgiá mới cho sản phẩm theo khuynh hướng giảm tốt hơn.
XI- Giải pháp 14 :Minh bạch thông tin về khủng hoảng, các biện pháp để xử lý khủnghoảng, và kết quả.

D. Giải pháp trong giải pháp :
I- Các giải pháp trên phải được thực hiện toànbộ, không thể lựa chọn giải pháp nào nên làm và giải pháp nào khôngnên làm. Nhưng các giải pháp trên chỉ là lý thuyết. Việc đề ra giảipháp trên giấy tờ và suy luận không nói lên được hiệu quả việc thựchiện giải pháp. Để điều hành một nền kinh tế phải từ những con số,nhất là con số thống kê, thống kê chính xác. Giải pháp chỉ thực thitốt khi nó được căn cứ vào con số thống kê chính xác và con sốthống kê đó cũng là cơ sở phù hợp để hiệu chỉnh các giải pháp.
II- Người quản lý nên nhớ rằng không có một giảipháp cho tất cả các vấn đề. Không có một giải pháp cho cùng mộttình huống nhưng lại xảy ra ở những thời gian và không gian khác nhau.Một giải pháp chỉ đúng trên hoàn cảnh hiện tại và trong một khônggian nhất định. Việc thực thi các giải pháp trên phải căn cứ trêntừng ngành, từng địa phương, từng doanh nghiệp để hiệu chỉnh cho phùhợp nhằm đạt kết quả tối ưu.
III- Giải pháp trêngiống như một chiến lược nhỏ, để thực hiện phải có kế hoạch. Giảipháp cho doanh nghiệp thì kế hoạch đó phải từ doanh nghiệp mà ra,giải pháp cho người dân thì kế hoạch đó phải từ người dân mà ra,chỉ khi người dân, doanh nghiệp hiểu và hết mình hỗ trợ cho kế hoạchthì kế hoạch đó mới có thể thực thi thành công mỹ mản.
IV- Cuối cùng mộtcâu chuyện vui. Vinanshin làm ăn thua lỗ bị kiện ra toà, báo chí cathán, người làm công trong Cty bị thất nghiệp, không có tiền lương màtết lại đến. Cuối cùng nhà nước ra tay cứu trợ, tặng cho tất cảngười làm trong Vinashin mỗi người một tháng lương. Nghe rất nhân tâmnhưng nghĩ cho cùng thì rất nhẫn tâm. Người làm công không có tội làmphá sản doanh nghiệp chỉ được hưởng mức lương 1 tháng tương đươngkhoảng 2 đến 4 triệu. Trong khi người quản lý đã cố tình làm chếtVinashin thì lại được hưởng gấp chục lần (mà cũng chỉ là một thánglương). Mọi chính sách nhà nước không được cào bằng mà phải côngbằng, công bằng có tính đến hiệu quả. Không thể hổ trợ 4% lãi suấtcho tất cả các doanh nghiệp có nhu cầu đi vay mà chỉ hổ trợ cho doanhnghiệp nào có xác nhận hiệu quả kinh doanh qua kiểm toán. Có thể chovay ngay để doanh nghiệp có vốn hoạt động, nhưng anh không có kết quảkiểm toán hiệu quả thì không được khấu trừ 4% đó. Cũng giống nhưvậy đợt này có giảm thuế VAT thì nói rõ, chỉ giảm cho doanh nghiệpnào giảm giá bán theo sự thống nhất của nhà nước với các hiệp hộidoanh nghiệp, còn anh không giảm giá bán thì xin miển được hưởng.

Khủng hoảng kinh tế vì đâu ra - nguyên nhân số 5

Sai lầm trong điều hành nền kinh tế.
I- Hệ thống tàichính yếu kém.
1. Nhiều nhà kinhtế cho rằng chúng ta phạm sai lầm trong một thời gian dài là tạo ramức cung tiền quá lớn cho thị trường, tạo ra thặng dư nguồn cung đãdẩn đến lạm phát và kết luận việc khủng hoảng hiện nay do sai lầmtrong cung tiền ra thị trường. Thật ra tài chính trong nền kinh tế chỉgiống như cảnh sát giao thông, thường xảy ra kẹt xe, tai nạn giao thông,người ta hay nghĩ đến đó là lỗi của cảnh sát giao thông, nhưng chínhxác thì đó là lỗi của ngành giao thông với vị tư lệnh là ngài bộtrưởng. Còn cảnh sát chỉ là người điều tiết giao thông. Tất nhiênnếu điều tiết kém, thì chính cảnh sát giao thông cũng là một trongnhững thủ phạm của của kẹt xe và tai nạn giao thông. Ngành tài chínhvới bộ mặt là hệ thống ngân hàng cũng vậy, lỗi chính cho khủng hoảngkhông xuất phát từ ngành ngân hàng mà do cách điều tiết của ngânhàng đã góp phần làm cuộc khủng hoảng nhanh hơn và mạnh hơn. Mỗ xẻthất bại của ngân hàng không giải quyết được khủng hoảng nhưng bảođảm rằng, sau khi bắt đầu bước vào việc giải quyết khủng hoảng vàsau khi hoàn tất việc giải quyết khủng hoảng, ta không lại bị sự trìtrệ, yếu kém của ngành tài chính cản trở và nếu kéo.
2. Hai yếu tố sailầm một là mức độ tập trung vốn quá lớn cho từng một ngân hàng khibản thân nó không thể hấp thụ được nguồn vốn đó và hai là không cóchiến lược điều tiết vốn cho thị trường.
3. Trước đợt thànhlập lớn các ngân hàng, đã có nhiều ngân hàng và tổ chức tín dụnghoạt động (gần hết là ngân hàng nhà nước), nhưng các hoạt động mangtính chuyên ngành. Các khoản vay nhỏ, thường là tín chấp, gắn liền vớihoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Người cho vay thường hiểu rõhoạt động của doanh nghiệp nên khoản cho vay thường ổn định. Một đơnvị tín dụng không vốn lớn, quản trị không cao cấp nhưng phù hợp, gắnliền với hoạt động kinh doanh, kinh doanh hiệu quả. Trong một thời giandài sau đổi mới, hệ thống tài chính chưa tốt lắm nhưng vẫn làm trònnhiệm vụ điều tiết vốn cho thị trường đã hỗ trợ cho doanh nghiệpphát triển
4. Khi thị trườngchứng khoán manh nha hình thành, đánh hơi thấy nhu cầu tập trung mộtkhoản vốn lớn, các ngân hàng mới được đua nhau thành lập và bắt đầutập trung những khoản vốn lớn. Tập 1 của khủng hoảng tài chính bắtđầu khi một nguồn vốn lớn trong xã hội trước đó để phát triển kinhdoanh hoặc là nguồn để phát triển kinh doanh được chuyển sang chứngkhoán. Thị trường chứng khoán phát triển nhanh là nguồn vốn đượctập trung càng nhanh. Người ta đua nhau thành lập công ty, cổ phần hóacty, tăng vốn điều lệ công ty để nhằm mục đích kiếm lợi từ sự chênhlệch giá mua bán cổ phiếu mà không nhằm vào hiệu quả hoạt độngdoanh nghiệp. Trong thời kỳ này hàng loạt động sản, bất động sảncủa nhà nước được trả về giá trị thực của nó khi tiến hàng cổphần hóa, khiến thị trường vốn tăng vọt và các ngân hàng vốn lớnđể thỏa mản nhu cầu đó được hình thành.
5. Khi các khoảntập trung biến thành tích tụ, nhất là khi chính phủ ra quyết địnhtăng vốn điều lệ các ngân hàng lên cao. Một phần vốn trong nền kinhtế chảy vào ngân hàng và không quay ra. Vốn được chuyển vào thịtrường chứng khoán dưới nhiều hình thức cho như cho vay chứng khoán,cho vay để cổ phần hóa, cho vay thành lập công ty để có cổ phiếu. Nhưnggiai đoạn này chưa xảy khủng hoảng do vốn ngân hàng tăng nhưng đượcđảm bảo bằng tài sản nhà nước được đánh giá lại trong quá trìnhcổ phần hóa.
6. Tập 2 khủnghoảng đến khi thị trường chứng khoán biến động. Phần lớn vốn trênthị trường chứng khoán rơi vào tay các nhà cơ hội, còn vốn trong nềnkinh tế thì mất theo đà đi xuống của chứng khoán. Để đảm bảo nguồnvốn đang rớt của ngân hàng, chính phủ lại quy định thêm một đợt tăngvốn khác. Đợt này tiếp tục hút lượng lớn vốn trên thị trường vàohệ thống tài chính. Vốn chuyển sang bất động sản đang trên đà hồiphục. Giai đoạn này vốn trong ngân hàng đa phần là nguồn vốn từ nềnkinh tế. Nhưng ngân hàng rời bỏ vị trí là người điều tiết vốn chonền kinh tế mà chuyển sang kinh doanh tiền tệ. Chứng khoán và bấtđộng sản là 2 ngành cho tỉ suất lợi nhuận cao nhất, khả năng tậptrung vốn cao nhất, tỉ lệ rủi ro thất thoát thấp lúc đó đã hấp dẫncác ngân hàng. Sự tập trung thái quá vốn vào 2 ngành ít tạo ra giátrị (không phải giá cả) làm nền kinh tế như gà mắc tóc. Nơi cần vốnđể phát triển (có hiệu quả kinh tế) thì không có vốn, phải tạo vốntừ nhiều nguồn khác, khiến chi phí đẩy lên cao, năng suất lao độnggiảm, giá bán tăng vọt. Các khoản vay không đến được đơn vị kinh doanhhiệu quả. Nền kinh tế đang ăn vào đuôi của mình.
7. Tập 3 của cuộckhủng hoảng xuất hiện khi chính phủ để giảm đà lạm phát (theo cáchnói của chính phủ) hạn chế cung tiền ra thị trường. Việc giảm đàcung tiền này là cú ngáng chân đẩy nền kinh tế sụp đổ. Ngoài vốnngân hàng ngâm trong chứng khoán, bất động sản, hạ tầng, phần lớnvốn chạy vào doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hếtvốn, sản xuất ra không bán được, không có tiền trả lương và tái sảnxuất, khủng hoảng bắt đầu lan rộng.
8. Cú đấm nốc aonền kinh tế là việc bất động sản chết chìm trong tồn kho. Khoản nợbất động sản biến thành khoản nợ xấu kèm theo khoản nợ xấu củachứng khoán còn tồn lại. Ngân hàng hết máu phải sống từ bầu sữacủa nhà nước. Khi khủng hoảng sức mua bắt đầu, ngân hàng cũng bắtđầu thể hiện sự yếu kém của mình : Yếu kém khả năng đầu tư (ngânhàng không thể chỉ có lợi nhuận thuần từ cho vay); yếu kém khả năngquản lý rủi ro; yếu kém trong linh hoạt nghiệp vụ (khó cho doanhnghiệp nhỏ vay vì không bảo đảm rủi ro).
II- Khả năng cungtiền :
1. Chính phủ với cách nhìn thông thường, giá cảtăng, phải cung thêm tiền vào nền kinh tế và kết luận rằng nền kinhtế ta đang lạm phát và áp dụng hàng loạt biện pháp ngăn chặn lạmphát. Như đã nói trên phần nhập khẩu (yếu tố thứ 2), chúng ta khônglạm phát vì vậy các biện pháp để giảm lạm pháp được áp dụng vàotình hình hiện tại có thể tạo ra những sai lầm.
2. Một trong những sai lầm lớn là giảm cung tiền vàonền kinh tế. Khi giá nhập khẩu và xuất khẩu tăng tạo ra một mặtbằng giá mới (lưu ý rằng việc tăng giá này không do ta tự quyết địnhđược, nói chính xác là bắt buộc phải tăng). Việc tăng giá trên sốlượng sản phẩm không đổi như vậy làm tăng tổng trị giá sản phẩmtoàn bộ nền kinh tế. Muốn mua được toàn bộ trị giá sản phẩm đó,nền kinh tế phải có một khoản tiền mặt để thanh toán. Mà tiền mặtđang lưu hành theo tổng trị giá cũ. Nếu không cung thêm tiền cho nềnkinh tế tương xứng số mức đã tăng, nền kinh tế sẽ rơi vào khủnghoảng thanh toán. Và chúng ta thay vì cung thêm tiền cho nền kinh tếlại giảm lạm phát ảo bằng biện pháp giảm cung tiền cho nền kinh tế.
3. Hình dung rằng lúc trước cung tiền ra nền kinhtế là 100.000 tỷ đồng, trong đó phân bổ sai dẩn đến gần 40% trị giácung tiền đó rơi vào tay bất động sản và chứng khoán tương đương40.000 tỷ đồng, nền kinh tế ngoài bất động sản, chúng khoán còn 60%tương đương 60.000 tỷ đồng. Sau đó ta giảm cung tiền còn 80%. Nhưng bấtđộng sản, chứng khoán vẫn hút 40.000 tỷ đồng bây giờ trị giá tươngđối tăng lên 50% và nền kinh tế ngoài bất động sản, chứng khoán giờchỉ còn 50%. Mức giảm chi tiêu thực ra là chỉ giảm cho toàn bộ thịtrường ngoài bất động sản chứng khoán. Với mức giảm đó, bảo đảmtồn kho hàng hoá bên ngoài bất động sản và chứng khoán phải tăng20.000 tỷ đồng, dù phần cung và cầu trong sức mua vẫn có.